1.
Điều
kiện ra đời:
+ Thời kỳ giai cấp tư sản đã giành được thắng lợi chính trị:
Cách mạng tư sản Hà Lan cuối thế kỷ XVI; Cách mạng tư sản Anh thế kỷ XVII và
Cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII). Trong số các cuộc Cách mạng tư sản Tây Âu,
thì Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng triệt để nhất - nó xóa bỏ toàn bộ
chế độ phong kiến trung cổ, xác lập nền cộng hòa tư sản Pháp.
+ Phương thức sản xuất Tư bản chủ
nghĩa được xác lập, thống trị, đặt ra những yêu cầu mới cho khoa học và kỹ
thuật phát triển. Đây là thời kỳ chuyển từ nền “ văn minh nông nghiệp” sang
“văn minh công nghiệp”, là thời kỳ phát triển mạnh mẽ thị trường, tạo ra thị
trường thống nhất toàn quốc và mở rộng thị trường quốc tế.
+ Khoa học tự nhiên có sự phân ngành
mạnh, hình thành các bộ môn độc lập như: toán học, vật lý học, hóa học, sinh
học,... Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên -
thực nghiệm, các tri thức khoa học hầu hết là những sản phẩm của thực nghiệm.
Từ những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và sự phát triển
khoa học đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của triết học. Triết học Tây
Âu thời kỳ thế kỷ XVII – XVIII về cơ bản có những đặc điểm sau:
2.
Đặc
trưng cơ bản của triết học Tây Âu thời cận đại.
+
Thời kì thắng thế của chủ nghĩa duy vật
đối với chủ nghĩa duy tâm, Khoa học đối với tôn giáo, chủ nghĩa duy vật là thế
giới quan, vũ khí lý luận của giai cấp tư sản cách mạng. Thể hiện rõ ở thế kỷ XVII tư tưởng triết học duy vật
thể hiện rõ nét trong các nhà triết học như: Tô-mát Hốp-xơ, Giôn Lốc-cơ,
Xpinôda, Lép-ních... Nhưng đến cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII thì tư tưởng
triết học duy tâm, triết học chủ quan, không thể biết lại phát triển mạnh, thể
hiện ở các đại biểu như: Béccli, Đavít Hium...
+
Khoa học tự nhiên phân ngành sâu sắc,
phát triển mạnh mẻ, chủ nghỉa duy vật có bước phát triển mới. Bản thân các
khoa học nhìn chung chưa trở thành các khoa học độc lập, nên mối quan hệ giữa
triết học và các khoa học khác gắn bó tới mức khó phân biệt ranh giới giữa
chúng. Phần nhiều các triết gia như
Đêcáctơ, Lépnít… đều là các nhà
bách khoa uyên bác trên nhiều lĩnh vực khoa học. Sự phát triển khoa học đã giúp
cho các nhà triết học có nhiều quan niệm hợp lý về thế giới và con người. Cũng
chính do ảnh hưởng của các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học và toán học
mà trong triết học trong thời kỳ này chịu sự thống trị của phương pháp tư duy
siêu hình
+
Chú ý đến vấn đề nhận thức luận, phương
pháp nhận thức; cuộc đấu tranh giữa phái duy cảm với duy lý. Triết học duy cảm chính là sự tìm tòi của các nhà triết
học trên con đường nhận thức chân lý, các nhà triết học duy vật đồng thời là
các nhà hoạt động xã hội, tiêu biểu như: Tô-mát
Hốp-xơ, Giôn Lốc-cơ, các nhà triết
học duy vật Pháp... Họ đã đề cao cảm giác trong nhận thức; Triết học duy lý:
tuyệt đối hóa vai trò của lý tính trong nhận thức, các nhà triết học duy lý vừa
là các nhà triết học duy vật, vừa là các nhà khoa học (toán học), với các đại
biểu tiêu biểu như: Xpinôda, người
Hà Lan; Lép-ních, người Đức...
+
Đề cao vai trò con người, Giương cao ngọn
cờ giải phóng con người khỏi sự thống trị của phong kiến Giáo hội, mang lại tự
do, bình đẳng, hạnh phúc cho con người. Con
người đã được đề cập đến cả trong mối quan hệ với tự nhiên và cả trong mối quan
hệ giữa con người với con người. Trước đây, trong triết học Hy Lạp cổ đại, con
người chỉ được đề cập trong mối quan hệ với tự nhiên. Trong triết học thời kỳ
Trung cổ, con người được đề cập đến trong mối quan hệ với chúa trời, thượng đế,
giáo hội, nhà thờ. Trong triết học thời kỳ Phục hưng, con người chỉ được đề cập
chủ yếu với tư cách cá nhân. Ở thời kỳ này, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội quy định nên con người được đề cập đến cả trong hai mối quan hệ nêu trên. Đồng
thời, đây là thời kỳ diễn ra và thắng thế của cách mạng tư sản, nhất là sau khi
cách mạng tư sản thành công, xã hội công dân được hình thành và con người với
tư cách là một công dân trong xã hội, một chủ thể trong xã hội có tư cách pháp
nhân được đặt ra và phải giải quyết.
+ Phần lớn các nhà duy vật rơi vào phiếm thần luận hay tự nhiên thần luận.
thể hiện ở học thuyết của Lốccơ là một trong những người sáng lập
ra tự nhiên thần luận. Vào thời bấy giờ, tự nhiên thần luận có tính chất tương
đối tiến bộ, đồng thời có tính thoả hiệp. Lốccơ bác bỏ những thuyết tín ngưỡng
đương thời, phê phán những giáo lý và tổ chức giáo hội, nhưng ông lại thừa nhận
mọi thứ tôn giáo phi lý “tự nhiên” gọi là tự nhiên thần luận.
+
Phương pháp tư duy siêu hình, máy móc
chi phối. thể hiện ở học
thuyết về thực thể của Xpinôda cũng
chưa thoát khỏi tính siêu hình. Ông cho rằng, thực thể bất động và bất biến,
vận động không phải là thuộc tính vốn có thực thể mà là một dạng thức vận động
vô tận tách rời thực thể, dùng để chuyển từ thực thể bất động thành thế giới
của dạng thức vận động.