Quy trình và Kinh nghiệm số hóa nguồn tài liệu Hán Nôm tại Thư viện KHXH

Tóm tắt
Tài liệu Hán Nôm hiện nay được xem là một trong những tài liệu quý hiếm là di sản văn hóa của dân tộc cần được sưu tầm, bảo tồn trước sự tàn phá của thời gian, môi trường, côn trùng và cả của con người. Thư viện Khoa học xã hội đã xác định số hóa tài liệu Hán Nôm là giải pháp “tối ưu” nhằm bảo quản trước nguy cơ bị hủy hoại, biến mất theo thời gian.
Bài viết này nhằm giới thiệu về quy trình số hóa và đúc rút một số kinh nghiệm từ thực tiễn tham gia công tác số hóa tài liệu Hán Nôm tại Thư viện Khoa học xã hội của tác giả.

1.     ĐẶT VẤN ĐỀ:

Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã và đang thúc đẩy sự chuyển đổi từ một thư viện truyền thống sang một thư viện điện tử, thư viện số. Nguồn tài nguyên thông tin số vì thế mà ngày một phát triển và phổ biến hơn, là một xu thế tất yếu đối với các thư viện của nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam. Yêu cầu số hoá tài liệu quý, hiếm càng trở nên quan trọng. Đối với công tác bảo tồn di sản văn hoá thành văn, công tác số hóa đã tích cực góp phần gìn giữ khối di sản văn hoá vô giá của dân tộc. Tài liệu Hán Nôm là mối dây liên kết không chỉ thắt chặt mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại, mà còn gìn giữ cho các thế hệ tương lai một chiều dài lịch sử cũng như một truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc.
Thư viện Khoa học xã hội (Thư viện KHXH) thuộc Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, được thành lập vào tháng 5/1976, trên cơ sở tiếp quản Thư viện Khảo cổ. Nguồn tài liệu Hán Nôm có tại Thư viện Khoa học xã hội bao gồm hai loại là tài liệu Hán Nôm dưới dạng giấy và tài liệu Hán Nôm dưới dạng vi phim. Trong đó, có những tài liệu vừa có ở dạng giấy vừa có ở dạng vi phim. Bản vi phim được chụp từ năm 1955. Những tài liệu Hán Nôm nói chung được nhiều nhà nghiên cứu cổ văn đánh giá là quý hiếm về mặt lịch sử, văn học cổ, y học, triết học, tôn giáo... được trước tác, biên soạn bởi các sĩ phu (Ngô Sĩ Liên, Phan huy Chú, Lê Quý Đôn,…), hoặc của Quốc sử quán triều Nguyễn,…
Tài liệu Hán Nôm tại Thư viện KHXH hiện có 490 (bản/quyển), gồm những bản viết tay, bản in , ảnh rửa từ bản vi phim,… Những tài liệu này do sự tàn phá của côn trùng, khí hậu và qua một thời gian dài sử dụng đã làm hư hại và đang có nguy cơ bị hủy hoại không thể phục hồi được nếu không có biện pháp bảo quản kịp thời. Vì vậy, số hoá tài liệu Hán Nôm được Thư viện KHXH xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và là một giải pháp “tối ưu” trong công tác bảo quản vốn di sản Hán Nôm quý hiếm này.

2.     MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN.

              -     Số hóa tài liệu là gì? Vì sao cần phải số hóa tài liệu?

Số hóa tài liệu là một khái niệm tương đối mới đối với cộng đồng những người làm công tác thư viện - thông tin. Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có nội dung chung và đều cho rằng: “Số  hóa  tài  liệu  là quá trình chuyển các dạng dữ liệu/tài liệu ở dạng truyền thống như các bản viết tay, bản in trên giấy, hình ảnh, âm thanh, phim, … sang dữ liệu/tài liệu dạng số để lưu trữ trên máy tính và được máy tính nhận biết”. Nói một cách ngắn gọn hơn, số hoá tài liệu là hình thức chuyển dạng các tài liệu truyền thống thành các tài liệu dạng số được đọc trên máy tính.

              -     Ý nghĩa của việc số hóa tài liệu

Một khi nguồn tài nguyên thông tin số là huyết mạch, là linh hồn của thư viện số thì công tác số hóa tài liệu có vai trò vô cùng quan trọng. Ý nghĩa của việc số hóa tài liệu có thể được nhận thức trên bảy khía cạnh sau đây: Trước hết việc số hóa tài liệu sẽ giúp giảm thiểu đáng kể diện tích, không gian lưu giữ; thứ hai là giúp việc bảo quản, duy trì tuổi thọ của tài liệu truyền thống được lâu hơn; thứ ba là dễ dàng mở rộng phạm vi cộng đồng người sử dụng nguồn tài nguyên thông tin của cơ quan thông tin, thư viện; thứ tư là tiện ích trong việc truy xuất tìm kiếm thông tin ở bất kỳ đâu vào bất cứ thời điểm nào một cách nhanh chóng, dễ dàng; thứ năm là thuận lợi trong việc chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin giữa các thư viện; thứ sáu là giảm thiểu tối đa sức người, sức của cho việc quản lý nguồn tài nguyên thông tin truyền thống; thứ bảy là góp phần nhanh chóng tái tạo thông tin mới có giá trị gia tăng cao hơn.

3.       ĐẶC TRƯNG CỦA NGUỒN TÀI LIỆU HÁN NÔM HIỆN CÓ TẠI THƯ VIỆN KHXH:

         -    Về hình thức 

Trải qua thời gian, bản thân tài liệu dưới nhiều hình thức đều đã trở thành những cổ vật quý giá, từ chất liệu giấy, mực, hình dấu in trên văn bản, hình thức văn bản, ngôn ngữ, chữ viết, bút tích ngự phê của nhà vua,… đều trở thành những tư liệu quý báu, là di sản văn hóa cung cấp cho các nhà nghiên cứu rất nhiều thông tin trên nhiều lĩnh vực. Ngoài tài liệu vi phim, trong số 490 tài liệu thì có tới 331 tài liệu viết trên giấy dó chiếm 68%, 75 tài liệu là giấy in ảnh chiếm 15%[2] và 84 tài liệu là giấy in xưa chiếm 17%
-------------------------------------------------------------------------------------
[2] Tài liệu ảnh rửa từ bản vi phim. Đối với những tài liệu này, Thư viện KHXH ghi số định danh là SA. Ví dụ tập thơ “Bạch Vân Am thi tập” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, gồm 2 tập; tập thượng có ký hiệu là SA 11 và tập hạ có số ký hiệu là SA 12 đều là bản chụp từ bản vi phim của Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO). Tập thượng là bản chụp từ bản in, không rõ in năm nàotập hạ do Trung Chính Bá, Thời Bình Nam khảo đính, Trần Công Hiến biên tập và tổ chức in nhưng không rõ năm nào, bản hiện có tại Thư viện KHXH là bản chụp từ bản viết tay.

-         Về thời gian

Có một số khó khăn để xác định thời gian ra đời của các tài liệu Hán Nôm hiện có tại Thư viện KHXH bởi phần lớn tài liệu không nêu rõ tác giả và thời gian biên soạn hoặc hoàn thành, không ít các tài liệu được chép lại, biên soạn lại nhưng không ghi thời gian biên soạn lại hay chép lại, in lại của tài liệu đã được sáng tác từ trước, tài liệu thiếu mất trang bìa,… Ví dụ, thi tập “Ngự chế Quỳnh uyển cửu ca thi tập (của vua Lê Thánh Tông và các quan lại), văn bản vua cho khắc in đã không còn, các bản về sau đều được chép tay, bản hiện có tại Thư viện KHXH là bản chép tay 64 trang, không rõ được chép vào năm nào… Tuy nhiên, dựa vào các tài liệu có thông tin về thời gian, có thể xác định khung thời gian ra đời của các tài liệu Hán Nôm này là từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, trong đó tập trung vào thế kỷ XVIII và XIX. Các tài liệu dạng bản in của các nhà xuất bản là Hải Học Đường (như Danh thi hợp tuyển, Trần Công Hiến soạn năm 1814, Hải Học Đường in năm 1815, 2 quyển), Văn Đường tàng bản (như Thúy Sơn thu mộng ký, không rõ tác giả, Văn Đường tàng bản in năm 1878), Cận Văn Đường tàng bản (như Bạch Viên Tôn Các, khuyết danh, Cận Văn Đường tàng bản in, không ghi năm), Bảo Hoa Các tàng bản, Thiên Bảo Lâu thư cục, Hy Văn Đường tàng bản, Đồng Văn Đường tàng bản, v.v…

              -     Về nội dung

Mặc dù số lượng không nhiều, nhưng có thể nói nguồn tài liệu Hán Nôm của Thư viện KHXH có nội dung khá phong phú, liên quan đến nhiều lĩnh vực như lịch sử, văn học – nghệ thuật, ngôn ngữ, triết học, tôn giáo… Trong đó tài liệu Hán Nôm thuộc lĩnh vực lịch sử chiếm tỉ lệ cao nhất là 48%, văn học chiếm 28% và nghệ thuật chiếm 7%, số còn lại thuộc các lĩnh vực xã hội khác.
4.     NHÂN LỰC VÀ TRANG THIẾT BỊ PHỤC VỤ VIỆC SỐ HÓA TÀI LIỆU HÁN NÔM TẠI THƯ VIỆN KHXH

-         Về nhân lực phục vụ số hóa tài liệu:

Thư viện KHXH hiện có 12 cán bộ viên chức. Trong đó có 3 thư viện viên được phân công chuyên thực hiện công tác số hóa và số này có đủ khả năng tiếp nhận, làm chủ công nghệ số hóa tài liệu. Sử dụng thành thạo các phần mềm xử lý tài liệu số, thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ mới. Tài liệu sau khi số hóa đảm bảo chất lượng, đáp ứng tốt cho việc bảo quản và phố biến tài liệu đến với người dùng tin.

-         Các trang thiết bị phục vụ cho công tác số hóa

Với tính chất đặc thù của tài liệu Hán Nôm được viết từ nhiều chất liệu khác nhau như giấy dó, giấy in xưa, sách ảnh và cả vi phim, nên lựa chọn các thiết bị số hóa là một việc hết sức quan trọng, đòi hỏi phải có am hiểu về từng loại giấy khác nhau và công nghệ phù hợp với từng loại chất liệu đó.
+ Hệ thống máy chủ: Thư viện đã trang bị máy chủ IBM System x3100 M4 với dung lượng ổ cứng 2TB (terabyte) chạy trên nền tảng Windows Server 2008. Tuy hệ thống máy chủ chưa phải thuộc hàng hiện đại nhưng vẫn có đủ các tính năng và chức năng cho công tác quản trị thư viện điện tử. Đáp ứng được nhu cầu đặt ra cho việc lưu trữ CSDL Hán Nôm cũng như khai thác CSDL đọc trực tuyến đến với người dùng tin thông qua phần mềm quản trị tích hợp thư viện Libol.
+ Hệ thống máy trạm: Thư viện đã trang bị 4 máy trạm HP Compaq có kết nối Internet và cài đặt các phần mềm ứng dụng xử lý tài liệu số.
+Máy scanner: Đây là thiết bị cần thiết và quan trọng nhất phục vụ cho công tác quét tài liệu để chuyển từ tài liệu giấy sang dạng số (File JPG, File PDF…). Hiệu quả của công tác số hóa phụ thuộc hoàn toàn vào công nghệ số hóa. Với đặc thù của các tài liệu Hán Nôm thì Thư viện đã trang bị 3 máy scanner đáp ứng cho mỗi loại giấy và hình thức của ấn bản:
Máy Avision AV 186+: Máy này phù hợp với những tài liệu Hán Nôm dạng giấy in và có thể tháo gáy. Với tốc độ quét 2 mặt, quét màu, trắng đen và xuất file ra dạng JPG, PDF…, với 4000 tờ/ngày, độ phân giải 600dpi;
Máy quét ScanSnap SV600 là sự lựa chọn thích hợp cho việc số hóa tài liệu Hán Nôm tại thư viện hiện nay .Đặc biệt, ScanSnap SV600 được trang bị phần mềm OCR (nhận dạng chữ viết), giúp chuyển đổi hình ảnh thành dữ liệu văn bản có thể tìm kiếm được (PDF hai lớp) hoặc chỉnh sửa được (Word, Excel, Powerpoint).
Máy HP Scanjet 8200: Loại máy này dành cho việc scan “thủ công” và Thư viện sử dụng để số hóa các tài liệu Hán Nôm đã bị rách hoặc tài liệu hư hỏng nặng cần bồi vá và sửa chữa.
+ Phần mềm: Để hỗ trợ cho công tác số hóa tài liệu, đặc biệt là công đoạn xử lý kỹ thuật tài liệu số hóa góp phần tạo nên các file sản phẩm PDF đẹp, chất lượng thì Thư viện hiện đang sử dụng một số phần mềm sau: phần mềm Scan tailor, phần mềm Adobe Acrobat professional 8.0, phần mềm photoshop…
+ Ổ lưu trữ: Trong những năn gần đây, với sự phát triển của công nghệ ngày càng mạnh mẽ, từ đó cho ra đời nhiều vật mang tin có dung lượng lưu trữ cao như: CD-ROM , DVD,… Khi lưu trữ trên đĩa quang (CD-ROM, DVD) lâu dài chú ý tới tuổi thọ của đĩa có thể từ 5-10 năm, sau đó dữ liệu có thể bị hỏng hoặc mất mát. Cần có kết hoạch sao lưu dự phòng tất cả những dữ liệu. Đặc biệt, Trên thị trường hiện nay có một số loại ổ cứng di động có dung lượng rất lớn tới 3 đến 4 TB (terabyte), tích hợp các phần mềm ứng dụng đi kèm có các tính năng ưu việt như : tự động sao lưu dữ liệu, mức độ bảo mật cao, tốc độ xử lý nhanh với công nghệ USB 3.0, ví dụ dòng ổ cứng di động WD My Passport của hãng Western Digital, dòng Seagate Backup Plus của hãng Seagate… là sự lựa chọn tối ưu trong việc lưu trữ dữ liệu tại Thư viện

5.     QUY TRÌNH SỐ HÓA TÀI LIỆU:

Từ tháng 2 năm 2015, Thư viện KHXH bắt đầu chương trình số hoá kho tài liệu Hán Nôm, gồm 490 (bản/quyển) với khoảng 132.996 trang. Công tác số hóa tài liệu được thực hiện theo quy trình nghiệp vụ sau: lựa chọn tài liệu số hóa, bản quyền tài liệu, nội dung tài liệu, tần suất sử dụng tài liệu và tình trạng tài liệu.

-         Chọn lựa tài liệu số hóa và vấn đề đảm bảo bản quyền:

Việc chọn lựa tài liệu số hóa đặt ra vấn đề bản quyền. Bản quyền rất quan trọng trong việc lựa chọn tài liệu số hóa, vì tài liệu sau khi số hóa sẽ được tích hợp lên hệ thống CSDL của Thư viện để phục vụ rộng rãi người dùng tin. Tuy nhiên đối với tài liệu Hán Nôm tại Thư viện KHXH đều là tài liệu xưa, có từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, phần lớn là tài liệu không nêu rõ tác giả và là di sản của quốc gia được thư viện lưu giữ lại. Mục đích số hóa nguồn tài liệu này trước hết là để bảo quản lâu dài và phục vụ một cách hiệu quả cho việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học mà không ảnh hưởng đến tài liệu gốc. Do đó, xét về mặt thời gian và mục đích số hóa thì thư viện không vi phạm về vấn đề bản quyền.

-         Quy trình xử lý nghiệp vụ tài liệu Hán Nôm:

Đây là một trong những khâu tương đối phức tạp, sử dụng nhiều thao tác để xử lý, tích hợp vào CSDL đưa lên web server và phổ biến thông tin. Vì vậy, công tác số hóa nguồn tài liệu này được thực hiện qua các công đoạn được mô hình hóa như sau:
Quy trinh so hoa tai lieu
·      Bước 1: Tiến hành lựa chọn, phân loại tài liệu: Với công đoạn này, cán bộ thư viện cần tiến hành phân loại và xử lý kỷ thuật trước khi Scan. Vì, tài liệu Hán Nôn có những đặc thù riêng và được lưu giữ trên các vật mang tin khác nhau (giấy dó, giấy ảnh, giấy in, vi phim…) cho nên cần tiến hành phân loại để sử dụng loại máy Scan phù hợp, đáp ứng được yêu cầu về mặt kỹ thuật cũng như chất lượng đầu ra của các sản phẩm. Với những tài liệu Hán Nôn bị hư hỏng cần phải tiến hành bồi vá trước khi tiến hành Scan, cần phải làm sạch tài liệu nhất là những tài liệu phải tháo gáy sách thì phải làm sạch các lớp keo dán, kim bấm để không ảnh hướng đến thiết bị máy Scan và đảm bảo chất lượng file số hóa.
·      Bước 2: Tiến hành scan tài liệu bằng máy scan thích hợp: Thư viện KHXH đã tiến hành sử dụng ba máy scan cho việc Số hóa tài liệu Hán Nôm như đã đề cặp ở trên (máy Avision AV 186+; máy quét ScanSnap SV600; máy HP Scanjet 8200). Mỗi loại máy Scan có những ưu điểm khác nhau để đáp ứng tối đa cho công tác Số hóa tài liệu. Với các thông số kỹ thuật như:
+ Chọn Scan Picture: đối với scan tài liệu để đưa vào CSDL toàn văn và scan dịch vụ không xuất ra file text;
 + Chọn Scan Document: đối với scan dịch vụ xuất ra file text.
+ Chọn độ phân giải : Tối thiểu 300 DPI trở lên đến 600 DPI
+ Chọn chế độ 24-bit RGB màu hoặc (8-16 bit grayscale) và chỉnh sáng/tối nếu muốn (chú ý không chỉnh quá sáng hay quá tối).
+ Chọn nơi lưu trữ
Cũng nên chú ý rằng độ phân giải “DPI” càng cao thì dung lượng file càng cao và điều này s ảnh hưởng đến tốc độ đọc file và chiếm dung lượng lưu trữ. Do đó, cần phải xác định và cho độ phân giải hợp lý nhất, để đảm bảo rằng các trang hình ảnh xuất ra rõ ràng, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật. Trong điều kiện về các trang thiết bị hiện có của Thư viện, thì cần thiết lập 300 dpi đối với tài liệu bản in và 400 dpi với tài liệu giấy dó để đảm bảo chất lượng bản Scan và cũng như dung lượng lưu trữ thiết bị tại thư viện.
·      Bước 3 :  Xử lý các file đã được số hóa (scan): Tài liệu Hán Nôm sau khi được máy scan quét và lưu ở định dạng ảnh (JPG) chỉ là những file ở dạng thô như: các trang chưa được tách theo thứ tự trước sau, trang lỗi trong quá trình quét tài liệu, thiếu trang, các trang chưa đều size (kích cỡ), … Do đó, cần phải được xử lý qua hai phần mềm Scan tailor và Adobe Acrobat pro để có một tài liệu được chuẩn hóa, kết nối các trang thành một đơn vị tài liệu đã số hóa được lưu ở định PDF.
·      Bước 4: Xây dựng “mục lục” cho tài liệu đã được số hóa: Sau khi đã chuẩn hóa về mặt hình thức như ở bước 3, một tài liệu số hóa (file PDF) được coi là hoàn chỉnh khi được biên tập “mục lục” (bookmark), tức là tạo ra những điểm truy cập trên tài liệu. Mục đích của việc tạo mục lục (bookmark) trên tài liệu số hóa là để đánh dấu một điểm (chương, mục,…) để từ đó có thể kết nối ngay tới điểm cần tìm (thao tác hyperlink trên máy tính). Thông qua cấu trúc thư mục gồm các phần, chương, các đề mục nhỏ hơn… giúp cho người dùng tin có thể truy cập nhanh chóng nội dung mà mình cần tìm thông qua “mục lục” (bookmark).
·      Bước 5: Biên mục và gắn liên kết tài liệu số: Hiện Thư viện KHXH đang sử dụng phần mềm Libol 5.5 để biên mục các tài liệu Hán Nôm đã được số hóa, cũng như áp dụng các quy tắc, chuẩn AACR2, MACR21 để biên mục. Thư viện đã tiến hành gắn liên kết các file tài liệu số hóa với các biểu ghi đã được mô tả, bằng việc vào phân hệ “Sưu tập số” của phần mềm tích hợp Libol.
·      Bước 6: Tổ chức lưu trữ và phố biến thông tin: Tài liệu số hóa sau khi được xử lý ở mọi công đoạn và hoàn tất phải được lưu trữ và bảo quản cận thận, nhằm đảm bảo tính an toàn cho tài liệu. Thư viện phải có đủ phương tiện lưu trữ cũng như đề ra chính sách lưu trữ cho hợp lý. Đối với những tài liệu giấy sau khi đã số hóa thư viện đã tiến hành bảo quản những tài liệu này với một chế độ bảo quản đặc biệt là sử dụng các kết sắt chuyên dụng trong việc bảo quản những tài liệu quý hiện nay.

6.     KINH NGHIỆM TỪ THỰC TIỄN SỐ HÓA TÀI LIỆU HÁN NÔM TẠI THƯ VIỆN KHXH

Trong bối cảnh hội nhập và nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ bạn đọc, việc số hóa tài liệu Hán Nôm và những tài liệu quý hiếm khác cũng nhằm từng bước nâng cao khả năng tin học hóa của Thư viện Khoa học xã hội, góp phần hướng tới việc xây dựng cơ sở dữ liệu chung cho các thư viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Trong quá trình số hóa tài liệu Hán Nôm, Thư viện đã rút ra được một số kinh nghiệm thực tiễn như sau:
-  Đa số tài liệu Hán Nôm ở thư viện là giấy dó rất mỏng, được xếp đôi lại thành một tờ gồm mặt (a) và mặt (b), giữa hai mặt có khoảng trống có thể chen vào một tờ giấy khác. Khi số hóa tài liệu này đòi hỏi cán bộ thư viện phải rất cẩn thận trong quá trình xử lý và xuất phát từ đặc điểm trên (một tờ được xếp đôi) khi scan tài liệu cần phải lót một tờ giấy vào giữa tờ giấy dó trước khi quét tài liệu để tránh tình trạng ánh sáng phản xạ chiếu xuyên qua mặt còn lại làm cho chữ bị chồng chữ. Khi scan, chúng ta chỉ cần để độ phân giải 300 dpi cho tài liệu cở chữ trên 9 và 400 dpi cho cỡ chữ dưới 8, không cần thiết lập cao hơn làm tăng kích thước file, và nên chọn chế độ scan màu (color) thay vì chế độ đơn sắc (Grayscale hoặc Black and White) để có thể giữ nguyên hình ảnh thực của tài liệu. Tuy nhiên, đối với một số tài liệu bị ố vàng, có thể chọn chế độ scan đơn sắc để thấy tài liệu mới hơn.
-  Với tài liệu Hán Nôm, khi đọc từ trước đến sau là đọc từ phải sang trái (ngược lại so với tài liệu thông thường khác) và có những tài liệu cách đánh số trang cũng có đặc thù riêng chẳng hạn như: có những tài liệu đánh số trang là 1a, 1b; 2a, 2b… và có những tài liệu Hán Nôm theo thời gian và qua quá trình sử dụng của con người đã bị hư hỏng và rách không còn nhận biết được số trang. Vì vậy, trước khi số hóa tài liệu thư viện đã tiến hành đánh số trang thuận từ 1, 2, 3… nhưng theo chiều từ trái sang phải để thuận tiện trong việc kiểm tra những sai sót trong quá trình số hóa như: thiếu trang, trùng trang và các trang không đúng vị trí trong quá trình xử lý.
-  Thư viện KHXH hiện không có thư viện viên biết chữa Hán Nôm và vì vậy Thư viện gặp rất nhiều khó khăn trong việc xử lý tài liệu Hán Nôm nhất là khâu biên mục và xây dựng bookmark. Để khắc phục tình trạng này, Thư viện KHXH đã phải mời các cộng tác viên có trình độ tốt về chữ Hán Nôm để hỗ trợ cho khâu biên mục và lập bookmark. Tuy nhiên, điều này cũng ảnh hưởng đến tiến độ và chi phí.
-  Vấn đề an toàn file tài liệu số cũng là một trong những vấn đề mà Thư viện KHXH quan tâm hàng đầu, vì trong thời đại công nghệ, tin học phát triển như hiện nay thì tính rủi ro rất cao như: bị hacker tấn công vào hê thống máy chủ, virut tấn công vào các tập tin, cơ sở dữ liệu bị đánh cắp,... Vì vậy, Thư viện KHXH đã tăng cường hệ thống bảo mật như: cần thiết lập tường lửa (firewall) nhằm ngăn chặn người dùng mạng Internet truy cập các thông tin không mong muốn hoặc/và ngăn chặn người dùng từ bên ngoài truy nhập các thông tin bảo mật nằm trong mạng nội bộ. Thiết lập chính sách “backup” dữ liệu định kỳ, tuy nhiên đây là một việc đòi hỏi người quản trị hệ thống phải có kỹ năng và sự hiểu biết đáng kể về các giao thức mạng và về an ninh máy tính. Do vậy, thư viện cần có chính sách đạo tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ chuyên môn để bảo vệ chống lại các rủi ro trên.  

KẾT LUẬN:

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong thời đại kinh tế hội nhập vừa là cơ hội vừa là thách thức cho Thư viện KHXH nói riêng và hoạt động thông tin - thư viện nói chung. Những đòi hỏi của người dùng tin trong thời đại bùng nổ thông tin đặt cho Thư viện KHXH nhu cầu đổi mới để bắt kịp với tiến bộ của thời đại phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và để thực hiện được điều đó, công tác số hóa tài liệu nói chung và số hóa tài liệu Hán Nôm nói riêng là một việc làm cần thiết, một động thái tích cực để đổi mới phương pháp phục vụ nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Hơn thế, đối với tài liệu Hán Nôm, một di sản văn hóa của dân tộc, là các tài liệu quý hiếm đang hàng ngày, hàng giờ phải chịu sự đe dọa của môi trường, của các tác nhân gây hại cần phải được bảo quản tồn đồng thời vẫn phải được đưa ra phục vụ bạn đọc thì việc số hóa là yêu cầu hết sức cấp bách.
Ý thức được tầm quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động nghiệp vụ, cũng như nhận thấy được sự cần thiết của công tác số hóa tài liệu, đặc biệt là tài liệu Hán Nôm. Thư viện KHXH đã và đang phấn đấu nỗ lực để làm tốt vai trò của một đơn vị hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu của Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ và góp phần gìn giữ những di sản văn hóa thành văn của dân tộc qua công tác số hóa tài liệu, đặc biệt là tài liệu Hán Nôm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.   Lê Văn Viết. 2000. Cẩm nang nghề thư viện. H.: Văn hóa – Thông tin, 630tr.
2.   Đoàn Phan Tân. 2001. Tin học trong hoạt động thư viện thông tin. H. : Đại học Quốc gia Hà Nội, 197tr.
3.   Dương Duy Tiến. Một số vấn đề về số hóa tài liệu. Xây dựng và chia sẽ nguồn lực thông tin địa phương dạn số phục vụ bảo tổn di sản và phát triển kinh tế-xã hội, Tr. 49-53
4.   Lê Đức Thắng. 2009. Quy trình tổ chức số hóa tài liệu thư viện. Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 3, Tr. 24-30
5.   Lê Đức Thắng. 2013. Sử dụng phần mềm Scan Tailor trong xử lý tài liệu số hóa sau scan. Tạp chí Thư viện Việt Nam, Số 4, Tr. 37-40
6.   Helen Nneka Eke-Okpala. 2011. Digitizing resources for University of Nigeria repository: Process and challenges. Webology, Volume 8, Number 1, Tr. 1-17

 Nguyễn Văn Sự

Post a Comment

Previous Post Next Post

Back to top