Trình bày Nhân sinh quan Phật giáo Ấn Độ, đánh giá ưu điểm và khuyết điểm

Trình bày Nhân sinh quan Phật giáo Ấn Độ
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học Ấn độ.
a)  Điều kiện tự nhiên:  Ấn độ là một bán đảo, hình tam giác, đáy ở phía Bắc, đỉnh ở phía Nam, với diện tích hơn 3 triệu Km2. Đặc điểm khí hậu rất tương phản giữa các miền, phía Bắc lạnh giá còn phái nam rất nóng
b) Điều kiện xã hội: Xã hội Ấn Độ cổ đại phân chia đẳng cấp rất khắc nghiệt: Tăng lữ, qúy tộc và những người giàu có, bình dân tự do, nô lệ. Tuy nhiên, ở Ấn Độ không chỉ người nô lệ bị coi thường mà những thợ thuộc da và nhân công mai táng cũng vậy.
-     Ấn Độ nói riêng và Phương Tây nói chung là quê hương của tôn giáo lớn Phật giáo, Đạo Hồi và đạo Thiên chúa.
-     Người Ấn độ rất thích tôn giáo và triết học, có khả năng tư duy trừu tượng
-     Nét đặt trưng của triết học Ấn Độ là chịu sự ảnh hưởng của tôn giáo và hướng nội, từ đó lí giải và thực hành vấn đề nhân sinh quan dưới gốc độ tâm linh và hướng tới giải thoát.
c)  Vài nét về đức Phật: Người sáng lập phật giáo là thái tử Tất Đạt Đa con vua Tịnh Phạn, Sau khi tu hành đắc đạo có danh hiệu là Thích Ca Mầu Ni, tận mắt chứng kiến đời sống khổ cực và bất lực của con người trong xã hội đương thời, đã khiến Tất Đạt Đa có ý định từ bỏ cuộc sống giàu sang để đi tìm đạo lý cứu đời. Qua thời gian học đạo, Ông nhận thấy rằng cuộc sống giàu sang về vật chất thỏa mãn dục vọng và cả cuộc sống tu hành khổ hạnh, ép xác đều là con đường sai lầm. Ông cho rằng cuộc sống giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thường, còn cuộc đời tu hành khổ hạnh là tăm tối, mà chỉ có con đường tu đạo mới là con đường đúng đắn. Từ đó, Ông đã giác ngộ được chân lý, đã nhận thức và lý giải được nguồn gốc nỗi khổ của con người, cũng như phương pháp giải thoát, diệt khổ.
2.   Nhân sinh quan trong triết học phật giáo.
Nhân sinh quan phật giáo là hệ thống quan điểm của phật giáo về con người, đời sống của con người. Hệ thống quan điểm mày chịu sự chi phối của thế giới quan, của tồn tại xã hội Ấn Độ cổ trung đại và bởi các ý thức xã hội khác.
- Luân hồi: có nghĩa là sự chuyển sinh hay còn gọi là bánh xe luân hồi.
- Nghiệp: bao gồm ý nghiệp là suy nghĩ mà phải suy nghỉ tốt và suy nghĩ đúng; Khẩu nghiệp là lời nói; Thân nghiệp là phải làm tốt.
- Giải thoát: là sự thành tâm, chấp nhận thân phận và luôn làm điều thiện.
- Quan niệm về đời người: “ Đời là bể khổ”; Thực chất của đạo Phật là học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo đã đưa ra thuyết “Tứ diệu đế”
+ Khổ đế: Triết lý nhân sinh phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ “Đời là bể khổ, đời là những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”
Có thể nói, quan niệm về “khổ” để nói lên bản chất của triết lý nhân sinh quan trong học thuyết Phật giáo. Tất cả nổi khổ của con người được phản ánh trong lý thuyết bát khổ bao gồm:
·       Sinh khổ: người mẹ mang thai thì vất vả, mệt nhọc. Và khi con người có mặt trên đời đã là khổ.
·       Lão khổ: Là sự khổ trong lúc già. Khổ của người là là “lực bất tòng tâm” muốn là làm không được.
·       Bệnh khổ: Là sự khổ đau trong cơn đau bệnh.
·       Tử khổ: Là sự khổ trong lúc chết. Mọi người đều muốn sống an vui, chết nhẹ nhàng, nhưng việc ấy rất khó toại nguyện.
·       Ái biệt ly khổ: Nổi khổ khi phải xa cách, chi ly người mình mến thương. Nỗi khổ này bao gồn nỗi khổ sinh tử biệt ly.
·       Oán tăng hội khổ: Là sự khổ về oan gia hội ngộ, nỗi khổ vì sống cùng với người mà mình không hề yêu thích.
·       Sở cầu bất đắt khổ: Là nỗi khổ do con người mong muốn, ao ước mà không đạt được, thì tạo thành nỗi khổ.
·       Ngũ ấm xí thạnh khổ: Gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành tức là cho thân tâm phải chịu hết những nỗi khổ. Như vậy, ở đây nói về sự khổ của Thân và Tâm.
+ Cùng với việc chỉ ra nỗi khổ của con người, Phật giáo cũng chỉ ra những nguyên nhân cơ bản của nổi khổ, điều này thể hiện trong thuyết Nhân đế:
·       Tham: Là biểu hiện tham lam của con người, cầu mong những cái mình chưa có tham lợi; tham danh; tham quyền lực
·       Sân: Là sự đố kỵ, sự cấu gắt, nóng giận, bực tức, khi con người không hài lòng về một vấn đề nào đó.
·       Si: Là sự si mê, lú lẫn làm cho con người không phân biệt điều hay dỡ
Từ ba nguyên nhân trên dẫn đến hai nguyên nhân chính là Vô minh và Ái dục: Vô mình là sự kém hiểu biết, còn ái dục là sự tham lam.
+ Phật giáo khẳng định nỗi khổ có thể tiêu diệt được, có thể chấm dứt khỏi vòng luân hồi với tư tưởng về Diệt đế. Phật giáo khuyên chúng ta là không sát sinh; không trộm cắp; không tà dâm; không uống rượu; không nói dối; tỉnh tâm. Để cho Phật tính bừng sáng, soi sáng dẫn chúng sinh đến cỏi niết bàn. Diệt đế nói lên thế giới của sự giải thoát, thế giới không còn đau khổ.
+ Về con đường giải thoát bể khổ của Phật giáo thông qua thuyết Đạo đế để tập trung trong tư tưởng bát chính đạo thực chất là để diệt trừ vô minh.
·       Chính kiến: là sự hiểu biết đúng đắn, nhất là nhận thức rõ về Tứ diệu đế; hiểu đúng sự vật khách quan, người ta nói có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi hoạt động, tâm trí sáng suốt
·       Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn;
·       Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính;
·       Chính nghiệp: hành động chân chính (không tà dâm, không sát sinh...) nghiệp có tà nghiệp và chính nghiệp. Nếu là tà nghiệp (sát hại, trộm cướp...) thì phải tu sửa, cải tạo, nếu là chính nghiệp thì phải giữ cho vững. Có thân nghiệp (do hành động gây ra), khẩu nghiệp (do lời nói gây ra) và ý nghiệp (mới trong ý nghĩ)
·       Chính mệnh: phải tiết chế dục vọng, trì giới (giữ các điều răn).
·       Chính tinh tấn: hăng hái, tích cực trong việc tìm kiếm và truyền bá chân lý của Phật.
·       Chính niệm: Phải thường hằng nhờ Phật, niệm Phật. 
·       Chính định: Phải tĩnh lặng, tập trung tư tưởng mà suy nghĩ về Tứ diệu đế, về vô thường, khổ.
Ưu và khuyết điểm: Phật giáo là một tôn giáo. Vì vậy, nó có những hạn chế về mặt thế giới quan và nhân sinh quan. Song, với thái độ khách quan, chúng ta cần nhận thức rõ những yếu tố tích cực trong tư tưởng triết học Phật giáo. Từ khi xuất hiện cho đến nay, Phật giáo là tôn giáo duy nhất lên tiếng chống lại thần quyền. Trong những tư tưởng của nó có những yếu tố duy vật và biện chứng. Đạo Phật còn tích cực chống chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo bất công đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội; nói lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời. Đạo Phật nêu cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái cho mọi người như là một tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Những giá trị tích cực của Phật giáo đã đưa nó lên thành một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới.

Post a Comment

Previous Post Next Post

Back to top